Lễ tịch điền đầu tiên
Sách Đại Việt sử lược, tác phẩm sử học cổ nhất còn giữ được đến ngày nay có đoạn cho biết về sự kiện cày tịch điền như sau: “Năm Đinh Hợi, hiệu Thiên Phúc năm thứ 7 (987) vua bắt đầu cày ruộng tịch điền ở Đội Sơn, được một lọ vàng bạc, cày ở núi Bà Hối được một lọ nữa, vua đặt tên đất đó là ruộng Kim Ngân".
Về địa danh nơi cày tịch điền, sách sử chép có khác biệt đôi chút nhưng đều nhắc đến chuyện Lê Đại Hành đi cày tịch điền, hai lần đều được vàng bạc ở ruộng cày. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Đinh Hợi (Thiên Phúc năm thứ 8 (987), Tống Ung Hy năm thứ 4). Mùa xuân, vua lần đầu cày ruộng tịch điền ở núi Đọi được một hũ nhỏ vàng. Lại cày ở núi Bàn Hải, được một hũ nhỏ bạc, nhân đó đặt tên là ruộng Kim Ngân".
Đội Sơn hay Đọi Sơn, Long Lĩnh là tên gọi khác của núi Long Đội nay thuộc xã Tiên Sơn, thị xã Duy Tiên. Còn núi Bàn Hải (hay núi Bà Hối) thì không rõ ở đâu nhưng theo một số nhà nghiên cứu thì chỗ đó có thể gần với khu vực núi Đọi Sơn.
Bà Hối là từ Hán Việt, trong đó Bà có nghĩa là bạc, trắng, còn Hối là của cải, có lẽ có liên quan đến việc tại đây khi cày đã được một hũ bạc. Ý kiến khác thì đặt giả thiết núi Bà Hối có thể là tên khác của núi Điệp Sơn, cũng gọi là núi Kim Ngưu vì hình dáng giống con đang trâu nằm, núi này nằm cách núi Đọi Sơn không xa.
Vua Lê và chuyện chọn vàng bạc hay cơm gạo
Hiện ở Hà Nam vẫn truyền tụng về câu chuyện vua Lê dùng mẹo khuyến nông như sau: Mặc dù đã ban chiếu khuyến nông, lại đặt ra chức quan Đô sứ để đốc thúc việc nông tang nhưng sau những chuyến đi tuần du, Lê Đại Hành vẫn thấy còn nhiều ruộng đất bị bỏ hoang. Một lần trong buổi thiết triều, vua nói với quần thần rằng: Ta thấy ruộng đất bỏ hoang còn nhiều lắm, muốn dân khai hoang, trồng cấy thì chỉ có cách đem vàng bạc trong kho chôn rải rác ở những nơi đất đai màu mỡ mà khuyến dụ họ. Theo các khanh, việc này có nên chăng? Triều thần nghe vua nói vậy cho rằng không nên bởi vàng bạc là thứ quý báu không thể ban phát bừa bãi được, hơn nữa để trong kho tàng để dùng cho những lúc hữu sự. Chẳng ai lại đem vàng bạc đi để khích lệ khai thác đất đai, cái thu về cũng chỉ là thóc gạo, ngô khoai, sánh sao được với vàng bạc. Thấy bá quan nói vậy, Lê Đại Hành chỉ ầm ừ cho qua rồi bàn sang chuyện khác. Gần trọn một ngày mà thấy vua vẫn lo việc nước, không đả động gì đến chuyện nghỉ ngơi, ăn uống, các quan bụng sôi lên mà chẳng dám nhắc, mãi đến khi không chịu nổi, một viên quan mới buột miệng kêu đói. Lúc đó, Lê Đại Hành giả bộ giật mình truyền quan ngự thiện cho người mang đồ ăn cho vua quan dùng tạm. Quan ngự thiện như đã được dặn trước, vội sai đầu bếp bưng lên một đĩa xôi lớn còn nóng tỏa mùi thơm phức, lại bưng ra một mâm vàng thoi sáng lóa. Cả ngày chưa có gì vào bụng, vừa đói vừa mệt, được nhà vua ban đồ ăn, các quan chẳng còn câu nệ gì lập tức bốc xôi ăn, chẳng ai đoái hoài gì đến mâm vàng để bên. Bấy giờ Lê Đại Hành mới cười, nói với triều thần: “Bây giờ các khanh thấy xôi quý hay vàng quý?" Mọi người đồng thanh nói xôi quý hơn vàng. Nghe vậy, vua nói tiếp: “Nếu vậy thì mang vàng bạc đem chôn ở ruộng đất cần khai phá để trồng cấy lấy thóc lúa, có cái ăn là điều nên làm phải không?". Khi ấy, bá quan đều hiểu được cái ý sâu xa của nhà vua, cùng đồng thanh hô “vạn tuế" để tỏ lòng kính phục. Sau đó, các quan theo lệnh vua bí mật cho người đem vàng bạc chôn rải rác tại những nơi đất đai cần khai phá rồi đi rao gọi: “Cày đất hoang mà lấy vàng thần", “vỡ ruộng cằn để lấy bạc trời cho".
Dân chúng đồn nhau về việc đó, có người tỏ ý nghi ngờ nhưng cũng có người khi vỡ đất khai hoang, cày ruộng lại có được vàng, được bạc vì thế họ hồ hởi, đua nhau khai hoang phục hóa. Để khích lệ người dân, đích thân Lê Đại Hành ra vùng ruộng ở dưới chân núi Đọi làm lễ tịch điền. Nhà vua xuống ruộng cày ba sá, lưỡi cày xới đất làm lộ ra một lọ vàng, vua lấy vàng tung hết ra những khu đất quanh đó và truyền bảo: “Ai cày ở những đất này thì ta ban thưởng cho số vàng đã gửi vào đó!"
Người ta tranh nhau cấy trồng, cày bừa để mong được vàng, được bạc nhà vua ban thưởng, nhờ đó khắp nơi chăm lo ruộng đất, chẳng bao lâu mùa màng bội thu, lúa tốt đầy đồng, ngô khoai, sắn, đỗ dư thừa giúp cho dân no nước mạnh.
Đó chính là câu chuyện hay bên những dòng ghi chép trong chính sử về lệ cày tịch điền do Lê Đại Hành mở đầu, đặt nền móng cho một mỹ tục được tiếp nối dài lâu, là một trong những biện pháp khuyến nông tốt đẹp của các triều đại phong kiến Việt Nam.