Tuy chưa đi trọn chặng đường 9 năm kháng chiến để được cùng Đảng, cùng
dân đánh đuổi thực dân Pháp nhưng nhà văn Nam Cao đã có những cống hiến đáng
ghi nhận trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Con đường văn đến với cách mạng,
cầm bút kháng chiến của ông là cả một quá trình đấu tranh tự thân nhận thức,
vượt lên chính mình để tìm ra chân lý trong cuộc sống và hướng đi đúng trong
sáng tạo văn học.
Trước cách mạng tháng 8/1945, Nam
Cao cũng như nhiều nhà văn, nhà thơ trí thức tiểu tư sản đương thời chịu ảnh
hưởng của trào lưu sáng tác lãng mạn. Buổi đầu cầm bút, ông làm thơ đăng trên
một vài tờ báo ở Sài Gòn với bút danh Thuý Rư, Nhiêu Khê... Nhưng chẳng được
bao lâu, bởi không thể sống tự lừa dối và chối bỏ bản thân mình, không thể quay
lưng trước nhiều cảnh đời khổ đau trong xã hội thực dân nửa phong kiến, đặc
biệt là cuộc sống của những người nông dân cùng khổ, ông tìm về với phương pháp
sáng tác hiện thực, phản ánh cuộc sống trong nỗi bức xúc, suy tư, nỗi đau đáu
của cõi lòng. Truyện ngắn “Trăng sáng” là bộc bạch tâm sự của ông về quá trình
đấu tranh giữa con đường sáng tác lãng mạn và sáng tác hiện thực, giữa cuộc
sống thực và cuộc sống ảo, để rồi ông đi
tới khẳng định không có thứ nghệ thuật nào đứng ngoài cuộc sống, tách rời khỏi
cuộc sống, dù cuộc sống ấy khắc nghiệt đến thế nào.
Đề tài chủ yếu trong sáng tác văn học của Nam Cao trước cách mạng là cuộc
sống của hai hạng người trong xã hội đương thời - người nông dân và người trí
thức tiểu tư sản. Nông dân và nông thôn là quan hệ gốc gác xuất thân của ông.
Cuộc sống của lớp người trí thức tiểu tư sản là môi trường mà ông dấn thân, đã
và đang phải trải. Viết về hai mảng đề tài cuộc sống ấy chính là Nam Cao viết
ra từ tâm can máu thịt của mình, nên sáng tác ông mang được đặc điểm khác biệt
so với sáng tác của nhiều tác giả theo phương pháp sáng tác hiện thực cùng
thời.
Khác với Nguyễn Công Hoan, Nam Cao viết về cuộc sống của những người nông
dân không cần dùng đến các thủ pháp miêu tả ước lệ, cường điệu, không lấy mục
đích đả kích, châm biếm, tố cáo làm trọng. Khác với Ngô Tất Tố có cái nhìn từ
trên xuống của một người trí thức vẫn còn phảng phất chút Nho học nhân văn,
luôn đượm niềm thương tâm trước nỗi khốn cùng của người nông dân, Nam Cao viết
về nỗi khốn cùng ấy như viết về tấn bi kịch của mình. Ông phải hiểu Chí Phèo
thì mới biết được lối suy nghĩ của gã, mới viết được những dòng độc thoại nội
tâm uẩn ức đến vậy, và mới tái hiện được những hành động bản năng của nhân vật này.
Những cảnh đời, cảnh người, cảnh thiên nhiên mà Nam Cao miêu tả về nông
dân và nông thôn tuy sần sùi, thô ráp
nhưng luôn được thông qua một thế giới nội tâm phức tạp, sinh động của nhân
vật. Ông như nhập vào nhân vật để viết ra cái tinh thần của nó. Ở nhân vật Chí Phèo, Nam Cao mổ sẻ những gì sâu
kín nhất (như trạng thái mơ hồ ngái ngủ của ý thức, những hành động bản năng
của nhân vật) nhằm cung cấp cho người đọc những cái thật nhất, bản chất nhất.
Chí Phèo lúc tỉnh, lúc say, say nhiều hơn tỉnh. Trong cơn say cuối cùng ở đời,
Chí đã vác dao đến nơi cần đến để đòi lương thiện. Nhiều nhà nghiên cứu văn học
cho rằng, sở dĩ Chí Phèo không thực hiện ý đồ ban đầu là tìm giết chết bà cô
của Thị Nở mà tìm giết Bá Kiến là do ma men dẫn lối, theo kiểu ngựa quen đường cũ, là do ảnh hưởng chủ
nghĩa tự nhiên. Nhưng theo chúng tôi, chính là lúc ấy tiềm thức mách bảo Chí
biết rõ ràng nhất nguyên nhân gây nên số phận bi đát của mình. Chí đã bỏ qua
nguyên nhân trực tiếp mà truy tìm tới nguyên nhân sâu xa. Cái nguyên nhân đã
biến Chí thành lưu manh, không cho trở về làm người lương thiện được nữa.
Bằng một giọng điệu ngôn ngữ văn chương lạnh lùng, Nam Cao đã tái hiện lại hình ảnh cái làng Vũ Đại bức bối
trong tăm tối, những kẻ bề trên một mặt nơm nớp lo âu trong mâu thuẫn bè đảng,
mặt khác tìm mọi cách bóc lột dân nghèo, và những người dân quê cũng chẳng thể
nào sống tốt được bởi chẳng ai có thể giúp đỡ được ai. Đúng như những lời vợ
ông giáo Thứ trong truyện ngắn Lão Hạc
đã từng đay nghiến về lòng tốt của chồng.
Về đề tài trí thức tiểu tư sản cũng vậy, Nam Cao đã phơi bày không giấu
giếm những mâu thuẫn nội tại trong tâm hồn, trong cuộc sống thường nhật của lớp
người mà ông đại diện. Hạng người này được xã hội thường cho rằng là có học,
nhưng theo ông, họ cũng không thoát khỏi kiếp người nô lệ, họ nhìn đời vẫn bằng
đôi mắt thiển cận, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, dù đã tự huyễn hoặc mình nhưng ở
họ tương lai vẫn mù mịt, cuộc sống thì ngày một hoen rỉ ra, mòn đi (Sống mòn).
Ở hai mảng đề tài trên, ông tái tạo hiện thực như bản thân nó vốn có, tái
tạo tỉ mỉ đến tận mọi chi tiết. Thực tiễn thật sinh động và là nguồn mạch dồi
dào luôn cung cấp các tư liệu cho ông sáng tạo văn học. Nhiều nhà nghiên cứu
văn học hiện đại đã suy tôn Nam Cao là Đôxtôiepxkyi của Việt Nam, bởi phương pháp
sáng tác của ông gần gũi với phương pháp sáng tác của nhà văn hiện thực người
Nga này - phương pháp sáng tác hiện thực nghiêm ngặt.
Đọc truyện ngắn của Nam Cao viết trước năm 1945, người đọc sẽ có một cảm
xúc rất mạnh sau khi thật lắng sâu suy nghĩ. Nếu đọc Tắt đèn của Ngô Tất Tố, nhiều người rớt lệ trước cảnh thương tâm
của gia đình chị Dậu, thì nhiều truyện ngắn như Lão Hạc, Một bữa no hay Chí Phèo… của Nam Cao, tuy không làm
người đọc rơi nước mắt nhưng lại thấy nỗi đau quặn ở trong lòng, căng thẳng trong
trí óc. Những suy tư day dứt của Nam Cao (luôn được bộc lộ trong hầu hết các
tác phẩm của ông) là những vấn đề bức xúc như dân trí, dân tình, dân sinh và
dân chủ. Vì thế tính triết lý và tính khái quát của tác phẩm Nam Cao rất cao -
như những thông điệp đấu tranh vì quyền sống của con người. Những vấn đề này đã
được nhà văn đề cập trong nhiều sáng tác trước năm 1945 với thế giới quan, nhân
sinh quan của ông giáo Thứ - một trí thức tiểu tư sản, và cũng được nêu ra rồi
giải thích theo thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng của ông sau này.
Sau khi đến với cách mạng, Nam Cao đã nhiều lần phê phán trong các tác
phẩm của mình cách nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong cuộc sống theo kiểu cực
đoan một chiều, không thấy nó đang biến động, thay đổi. Cách nhìn nhận, miêu
tả, phân tích sự vật, hiện tượng trong sự vận động của ông thực ra đã có trong
các sáng tác trước 1945, nó gần với phương pháp sáng tác hiện thực cách mạng
sau này, giống như ngọn lửa sẵn có trong con người ông, gặp gió là bùng cháy.
Nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật Chí Phèo theo lăng kính nhìn nhận như
vậy. Chí Phèo có đủ phẩm chất, tính cách một tên lưu manh, nhưng vẫn còn sần
sùi gốc gác (nhà quê) nông dân chất phác. Chí chỉ lưu manh trong hoàn cảnh bị
và cần phải lưu manh. Trong hoàn cảnh có (đôi khi chỉ là gợi lên) tình đời,
tình người thì Chí lại trở về thành con người lương thiện, mơ ước đến một cuộc
sống hạnh phúc giản dị của anh dân quê (cảnh Chí Phèo bưng bát cháo hành của
Thị Nở, cảnh Chí nghe tiếng chim hót, tiếng người hỏi nhau trong phiên chợ
sớm).
Do cách nhìn quần chúng cần lao đói khổ, cùng quẫn theo con mắt nhân văn
như vậy nên sau này đi theo cách mạng, Nam Cao càng hiểu được nhân dân hơn. Nếu
trong các sáng tác trước 1945, Nam Cao thể hiện nỗi day dứt, hồ nghi về trình
độ dân trí của người nông dân thì sau này nhà văn đã nhận thức lại. Ông cho
rằng, chính hoàn cảnh đã làm thay đổi tất cả. Những người dân quê mới hôm qua
còn bị áp bức, bóc lột, còn ngu dốt, sợ sệt, không dám đấu tranh, thì hôm nay
theo cách mạng, làm cách mạng họ lại hăm hở, bừng bừng khí thế, nói nhiều và
cũng làm nhiều, họ là động lực chính chiến thắng giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại
xâm.
Từ những thay đổi trong cách nhìn nhận về nhân dân như vậy, Nam Cao đã
dấn thân vào cuộc sống lao động, chiến đấu của dân tộc. Ông cho rằng những
người trí thức phải hòa mình vào cuộc sống của nhân dân để học và dạy nhân dân.
Cuộc sống của nhân dân là thực tiễn sinh động để người trí thức học tập, tránh
được những nhận thức lệch lạc (như nhân vật Hoàng trong truyện ngắn Đôi Mắt). Và cũng qua thực tiễn ấy, Nam
Cao đã đi đến kết luận Thà làm một anh
tuyên truyền nhãi nhép để có ích cho dân còn hơn viết những điều tưởng to lớn
mà sáo rỗng. Ông không ngần ngại một nhiệm vụ nào khi được tổ chức giao
cho, từ viết văn, làm báo, đến làm chủ tịch xã, dạy bình dân học vụ, làm công
tác thuế… Ông hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc, hăm hở tham gia đoàn quân
Nam tiến với nhiệm vụ của một phóng viên, lên Việt Bắc làm phóng viên rồi phụ
trách báo Cứu quốc và làm thư ký toà soạn báo Cứu quốc Việt Bắc, làm Tạp chí
Văn nghệ thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam. Đặc biệt có thời gian ông đã công tác tại
Ty Văn hóa Hà Nam, giúp tỉnh nhà ra báo Giữ ngước và báo Cờ chiến thắng.
Nam Cao ngã xuống trong lúc cuộc kháng chiến 9 năm của dân tộc bước vào
giai đoạn cam go ác liệt (30/11/1951), khi hiện thực cách mạng đương là nguồn
cảm hứng sáng tạo, lôi cuốn ông.